Tôm thẻ chân trắng Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei, tên gọi trước đây Penaeus vannamei) là một dạng của tôm panđan (không phảiCaridea) của vùng đông Thái Bình Dương thường được đánh bắt hoặc nuôi làm thực phẩm. Tôm thẻ chân trắng là loài bản địa ở đông Thái Bình Dương từ Sonora ở Mexico đến bắc Peru. Các nguồn cung cấp tôm thẻ chân trắng chủ yếu là Ecuador, Mexico và Brasil. Tôm thẻ chân trắng được bán trên thị trường Mỹ chủ yếu từ Mexico và Ecuador. Một số nhỏ hiện tại được nuôi ở Mỹ (Texas).
Châu Mỹ La Tinh, Hawaii, hiện nay được nuôi ở rất nhiều nước trên thế giới như: Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam.
Môi trường sống
Trong thiên nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ trong những vùng biển có độ sâu 70 mét với nhiệt độ 26-28 độ C, độ mặn khá cao (35 phần ngàn). Trứng nở ra ấu trùng và vẫn loan quanh ở khu vực sâu này. Tới giai đoạn Potlarvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa sông cạn. Sau một vài tháng, tôm con trưởng thành, chúng bơi ngược ra biển và tiếp diễn cuộc sống giao hợp, sinh sản làm chọn chu kỳ. Tôm chân trắng lớn rất nhanh trong giai đoạn đầu, mỗi tuần có thể tăng trưởng 3g với mật độ 100con/m2 tại Hawaii không kém gì tôm sú, sau khi đã đạt được 20g tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần, tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực.
Sự phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng trên thế giới: Tôm thẻ chân trắng được nuôi vào khoảng thập niên 80 (FAO Fishery Statistic, 2011). Đến năm 1992, chúng đã được nuôi phổ biến trên thế giới, nhưng chủ yếu tập trung ở các nước Nam Mỹ (Wedner &Rosenberry.,1992). Khi đó nhiều nước Châu Á đã tìm cách hạn chế phát triển tôm chân trắng do sợ lây bệnh cho tôm sú. Cho đến năm 2003 thì các nước châu Á bắt đầu nuôi đối tượng này và sản lượng tôm thẻ chân trắng trên thế giới đạt khoảng 1 triệu tấn, từ đó sản lượng tôm liên tục tăng nhanh qua các năm, đến năm 2010 sản lượng tôm đạt khoảng 2,7 triệu tấn.(FAO, 2011). Đến năm 2012 sản lượng tôm đạt khoảng 4 triệu tấn (GOAL 2013). Các nước nuôi tôm chủ yếu trên thế giới gồm Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Brazil, Ecuador, Mexico, Venezuela, Honduras, Guatemala, Nicaragua, Belize, Việt Nam, Malaysia, Thái Bình Dương đảo, Peru, Colombia, Costa Rica, Panama, El Salvador, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Philippines, Campuchia, Suriname, Saint Kitts, Jamaica, Cuba, Cộng hòa Dominica, Bahamas(FAO, 2012). Trong đó Trung Quốc có sản lượng cao nhất thế giới đạt khoảng 1,3 triệu tấn vào năm 2012 (GOAL, 2012). Hình thức nuôi chủ yếu là thâm canh và siêu thâm canh. Dự kiến sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt sản lượng khoảng 6 triệu tấn vào năm 2015 (GOAL, 2012).
Tình hình dịch bệnh: So với tôm sú thì tôm thẻ chân trắng có nhiều ưu điểm hơn về chất lượng con giống vì loài này đã được gia hóa qua nhiều thế hệ để tạo được con giống chất lượng cao như tăng trưởng nhanh, chịu đựng tốt với môi trường và quan trọng là tôm sạch bệnh, kháng được một số bệnh đặc thù từ đó mà các nước trên thế giới tập trung nuôi đối tượng này. Tôm thẻ chân trắng được coi là loài có khả năng chống bệnh tốt hơn các loài tôm khác (Wyban and Sweeny, 1991).
KỸ THUẬT NUÔI TÔM CHÂN TRẮNG
Phương pháp ương nuôi ấu trùng
Chuẩn bị bể ương nuôi.
Bể nuôi ấu trùng cần phải được chuẩn bị và làm sạch tối thiểu 24h trước khi thả Nauplii. Cấp nguồn nước sạch và lắp đặt hệ thống sục khí.
Nếu trại sản xuất hoạt động liên tục và kéo dài trên 3 tháng cần thiết phải khử phun chlorine trên sàn, đường ống dẫn nước, dây sục khí và các dụng cụ sử dụng… ở nồng độ chlorine 20 - 30 ppm. Sau khi xử lý khử trùng bằng chlorine cần phải để bể và dụng cụ đã xử lý nơi khô ráo, tránh ẩm ướt. Kích thước bể nuôi ấu trùng dao động tốt từ 4 - 5 m3 nước.
Chuẩn bị thức ăn
Thức ăn nuôi ấu trùng gồm nhiều loại phù hợp với từng giai đoạn ấu trùng khác nhau như tảo tươi, tảo khô, thức ăn tổng hợp, thức ăn chế biến, artemia.
Hiện nay trên thị có nhiều loại thức ăn tổng hợp dạng vi nang được dùng bổ sung thay thế một phần hoặc thay thế toàn bộ thức ăn tươi tự nhiên như (AP0 Frippak, No, Lansy và tảo khô) cho kết quả tốt. Tuy nhiên nên kết hợp thức ăn tự nhiên với thức ăn tổng hợp khô để nuôi ấu trùng thì hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn, chất lượng con giống tốt hơn. Tảo tươi là thành phần thức ăn bắt buộc trong giai đoạn Zoae 1 - Zoae 3 và được duy trì cho đến cuối giai đoạn Mysis.
Chuẩn bị Nauplii.
Sau khi tôm đẻ 36 - 40h, thu gom Nauplii trong bể đẻ vào chậu/xô có thể tích nhỏ hơn, từ 30 -50 lít nước. Siphon chất vẫn cặn ra khỏi chậu/xô đã thu gom Nauplii.
Định lượng số lượng Nauplii có trong chậu/xô thu gom để phân bố đến các bể nuôi ấu trùng theo đúng mật độ nuôi thích hợp.
Sự chuyển Nauplii từ bể cho đẻ sang bể nuôi ấu trùng cần kiểm tra sự chênh lệch về nhiệt độ và độ mặn nước ương nuôi. Nếu có sự chênh lệch lớn hơn 1oC về nhiệt độ và 2‰ về độ mặn cần phải thuần hoá cho Naupli. Thời gian thuần dưỡng không nên vượt quá sự cân bằng ở 1oC / 30 phút hoặc 1-2‰ / 30 phút.
Mật độ ương nuôi ấu trùng thích hợp: 100 - 150 Nauplii/l. Điều kiện môi trường nuôi: độ sâu nước 0.8 – 1.0m, độ mặn 28 - 32‰, nhiệt độ 26 – 30oC, pH từ 8.2 – 8.6, duy trì sục khí liên tục.
Cho ấu trùng ăn và chăm sóc.
Sau 36 - 38h, Naupli chuyển sang giai đoạn Zoae. Có 3 giai đoạn phụ của Zoae: Zoae 1, Zoae 2 và Zoae 3. Thời gian chuyển giữa các giai đoạn phụ thường là 24 - 28h, tuỳ nhiệt độ nước nuôi, số lượng và chất lượng thức ăn và sức khoẻ ấu trùng.
Kết thúc Zoae 3, ấu trùng chuyển sang giai đoạn Mysis. Có 3 giai đoạn phụ của Mysis: Mysis 1, Mysis 2 và Mysis 3. Thời gian chuyển giữa các giai đoạn phụ thường là 24-28h, tuỳ nhiệt độ nước nuôi, số lượng và chất lượng thức ăn và sức khoẻ ấu trùng. Mỗi giai đoạn phụ, nhu cầu sử dụng mật độ tảo cấp ở giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước.
Tỷ lệ thức ăn cung cấp cho mỗi giai đoạn phụ Zoae, Mysis như sau:
Giai đoạn Zoae: Thức ăn sử dụng là tảo sạch Chaetoceros / Skeletonema với mật độ tảo từ 4 – 20 vạn tb/ml kết hợp với thức ăn tổng hợp ( Lansy, Frippak…) ở lượng 0.4 – 0.6 g/m3. Cho ăn 8 lần/ngày. Giai đoạn này không cần thay nước. Kỹ thuật nuôi sinh khối tảo sử dụng cung cấp làm thức ăn cho ấu trùng xem phụ lục 2.
Giai đoạn Mysis: Thức ăn sử dụng là tảo sạch Chaetoceros hoặc Skeletonema với mật độ tảo từ 1 - 5 vạn tb/ml kết hợp với thức ăn tổng hợp ( Lansy, Frippak…) ở lượng 0.6 – 0.8 g/m3 và Naupli của Artemia. Cho ăn 8 lần/ngày. Giai đoạn này siphone thay nước 2 ngày/lần, khối lượng nước thay từ 20 – 30%/lần.
Sau giai đoạn Mysis 3, ấu trùng chuyển sang giai đoạn Postlarvae. Mỗi ngày nuôi Postlarvae được tính là 1 tuổi Post. Thức ăn giai đoạn Postlarvae sử dụng là Naupli của Artemia kết hợp với thức ăn tổng hợp ( Lansy, Frippak…) ở lượng 0.6 – 1.2 g/m3. Cho ăn 8 lần/ngày. Giai đoạn này siphone thay nước 2 ngày/lần, khối lượng nước thay từ 30 - 50%/lần.
Thu hoạch và vận chuyển Postlarvae
Thu hoạch
Rút cạn nước trong bể nuôi, dùng vợt vớt Postlarvae ra thùng, chậu. Tiến hành định lượng Postlarvae bằng cách đong mẫu hoặc đếm so màu mẫu để tính số lượng Postlarvae bằng cách đong mẫu hoặc đếm so màu mẫu để tính số lượng Postlarvae xuất cho người nuôi đồng thời tính được kết quả sản xuất và tỷ lệ sống cho từng đợt sản xuất giống, hạch toán lỗ, lãi.
Vận chuyển Postlaevae
Đóng tôm vào túi nilon có nước và oxy. Mật độ tôm trong bao tùy thuộc vào quãng đường và thời gian vận chuyển. Mật độ vận chuyển thông thường từ 1.000-2.000PL/ lít (thời gian vận chuyển trên 10 giờ) và 2.000-3.000PL/ lít (thời gian vận chuyển dưới 10 giờ), giữ nhiệt độ trong bao khoảng 25oC có tác dụng làm tôm ít hoạt động giảm lượng tiêu hao oxy, không ăn thịt lẫn nhau do vậy giảm được sự hao hụt trong quá trình vận chuyển.